Tầm quan trọng Akutan Zero

Dữ liệu từ Akutan Zero đã đệ trình lên BuAer và Grumman để nghiên cứu vào năm 1942.[27] Máy bay tiêm kích dựa trên tàu sân bayF6F (sản xuất sau Grumman F4F Wildcat)[4][33] có sự kiểm tra ở chế độ thử nghiệm đầu tiên vào ngày 26 tháng 6 năm 1942. Nguyên mẫu thử nghiệm là XF6F-1 với động cơ pistol hướng kính Wright R-2600 Twin Cyclone 14 xi lanh.[34][35] Không lâu trước chuyến bay đầu tiên của XF6F-1, BuAer đã chỉ đạo Grumman lắp đặt động cơ hướng kính Pratt & Whitney R-2800 Double Wasp 18 xi lanh mạnh hơn cho nguyên mẫu XF6F-3 vào ngày 26 tháng 4 năm 1942. Động cơ này cũng được sử dụng cho thiết kế Corsair của Chance Vought trong chuyến bay lần đầu vào năm 1940 và cho nguyên mẫu XF6F-1 thứ hai.[36] Grumman thực hiện nhiệm vụ mà BuAer giao phó bằng cách thiết kế lại và tăng cường khung máy bay F6F để kết hợp với động cơ R-2800-10 công suất 2000 mã lực (1500 kW), dẫn động cánh quạt ba cánh Hamilton Standard. Với sự kết hợp này, Grumman ước tính hiệu suất của XF6F-3 sẽ tăng 25% so với XF6F-1. XF6F-3 là chiếc Hellcat đầu tiên trang bị bộ khung Double Wasp, nó mang số hiệu là 02982 (do BuAer cấp) và cất cánh lần đầu vào ngày 30 tháng 7 năm 1942. Loại phụ F6F-3 thiết kế dựa trên tài liệu chiến đấu về các cuộc giao tranh giữa F4F Wildcat và A6M Zero trong trận chiến biển San Hôtrận Midway từ những phi công F4F kỳ cựu như Jim Flatley, Jimmy Thach cùng một số đồng nghiệp có mặt tại cuộc gặp với phó chủ tịch công ty GrummanJake Swirbul tại Trân Châu Cảng ngày 23 tháng 6 năm 1942. Chiếc F6F-3 đầu tiên thực hiện chuyến bay đầu tiên chỉ ba tháng sau vào ngày 3 tháng 10 năm 1942.[35][37][38][39] Các bài kiểm tra của Akutan Zero không ảnh hưởng đáng kể đến thiết kế của Hellcat.[40] Tuy nhiên, chúng lại cung cấp kiến thức về đặc tính điều khiển của máy bay Zero, bao gồm sự hạn chế trong việc lộn sang phải và bổ nhào xuống. Thông tin đó, cùng với sự cải tiến của Hellcat được cho là đã giúp phi công Hoa Kỳ "phá vỡ thế cân bằng ở Thái Bình Dương".[33] Một số phi công xuất sắc của Hoa Kỳ như Kenneth A. Walsh, R. Robert Porter đều công nhận chiến thuật dựa trên lý thuyết này đã cứu mạng họ.[41] Chỉ huy phi đội PBY Catalina, James Sargent Russell là người phát hiện ra chiếc Zero và sau đó được thăng cấp lên cấp đô đốc. Ông lưu ý rằng chiếc Zero của Koga "có ý nghĩa lịch sử to lớn." William N. Leonard cũng bày tỏ sự đồng tình khi mô tả: "Chiếc Zero [mà quân Hoa Kỳ] thu được là một kho báu. Theo hiểu biết của tôi thì không có bất cứ cỗ máy chiếm giữ nào khác mở ra nhiều bí mật vào tình thế cấp thiết như thế."[42]

Một số nhà sử học tranh cãi về mức độ mà Akutan Zero ảnh hưởng đến kết quả của trận không chiến ở Thái Bình Dương. Chẳng hạn như chiến thuật Thach Weave do John Thach nghĩ ra và được các phi công Mỹ sử dụng rất thành công để chống lại Zero. John Thach nghĩ ra chiến thuật này trước cả cuộc tấn công Trân Châu Cảng, dựa trên báo cáo tình báo về đặc điểm bay của Zero ở Trung Quốc.[43]

Tro cốt của Koga Tadayoshi có thể được chôn cất ở Nghĩa trang Quốc gia Chidorigafuchi.

Việc thu giữ và thử nghiệm bay với chiếc Zero của Koga thường được diễn tả là một kỳ tích vĩ đại đối với quân Đồng minh. Sự phát hiện này đã vén màn bí mật của chiếc máy bay kỳ quái và [là nguyên nhân] trực tiếp khiến nó trở nên lỗi thời. Theo quan điểm này thì chỉ đến lúc này thì phi công Đồng minh mới tìm ra cách đối phó với địch thủ nhanh nhẹn của họ. Người Nhật cũng rất đồng tình... Dẫu thế, những phi công Hải quân chiến đấu với Zero tại biển San Hô, MidwayGuadalcanal mà không hưởng lợi từ báo cáo sẽ [là trường hợp] khác. Cần phải xem lại việc mổ xẻ chiếc Zero của Koga có tạo ra chiến thuật để đánh bại loại máy bay được thêu dệt này hay không. Với họ, chiếc Zero không còn là kiểu máy bay huyền bí. Các phi công chiến đấu đã nhanh chóng truyền tai nhau về thuộc tính cụ thể của máy bay này. Thật vậy, vào ngày 6 tháng 10 [năm 1942], phi công thử nghiệm Akutan Zero là Frederick M. Trapnell có một tuyên bố rất rõ ràng: 'Ấn tượng chung về chiếc máy bay này y hệt như trong báo cáo ban đầu của quân tình báo, kể cả đặc điểm bay'.

— Lundstrom, John B., [44]

Tuy nhiên, ngay sau cuộc tấn công Trân Châu Cảng vào tháng 12 năm 1941, chín chiếc Mitsubishi A6M Zero bị đắm chìm xuống biển được trục vớt. Văn phòng Tình báo Hải quân Hoa Kỳ cùng với BuAer đã nghiên cứu chúng (nhưng không phát hiện ra nhiều điều) và sau đó chuyển chúng đến Phòng Kỹ thuật Thực nghiệm tại Dayton, Ohio trong năm 1942. Cần lưu ý rằng những nguyên mẫu Grumman XF6F-1 vẫn đang trong quá trình thử nghiệm vào tháng 6 năm 1942. Điều đáng chú ý nữa là đặc điểm thiết kế "cánh sáp nhập với thân" của Zero[45] cũng không mấy khi được áp dụng vào thời điểm đó.

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Akutan Zero http://www.angelfire.com/wa/wathies/ http://www.aviation-history.com/mitsubishi/zero.ht... http://www.j-aircraft.com/research/WarPrizes.htm http://www.lonesentry.com/articles/ttt08/zero-figh... http://www.pacificwrecks.com/aircraft/a6m2/1575.ht... http://www.warbirdforum.com/neumann.htm http://www.warbirdforum.com/zerodunn.htm http://web.mit.edu/invent/iow/neumannrevised.html //www.worldcat.org/oclc/871536711 https://books.google.com/books?id=GZCNhrm9eOYC&pri...